Phần 1 - NHỮNG TRÍ THỨC TỪ MỸ TRỞ VỀ
-
Cú nâng thuế choáng váng cả hành tinh của Donald Trump. Tôi cũng không phải ngoại lệ, thôi thì không biết đi hỏi người tài vậy. Hỏi chú Thành, người đã góp phần đưa chế độ ông Diệm đến bắt tay với Mỹ, và sau này khi nước ta thống nhất lại một lần nữa giúp chúng ta vượt qua cấm vận khắc nghiệt của USA...
Chú không trả lời thẳng vào câu hỏi mà thong thả kể chuyện cuộc đời. "Mọi sự trên đời đều là duyên nghiệp!". Và tôi, một hậu sinh láu táu đã từng viết về những tri thức trẻ từ Pháp trở về theo cách mạng, hôm nay được nghe về sự trở về xây dựng miền nam của lớp trí thức Việt, trở về từ Mỹ, theo lời kêu gọi của....câu chuyện cứ bắt đầu từ đầu thế kỷ 20.
Nhà chú quê ở Quảng Nam, bố chú là cụ Bùi Kiến Tín, học y ở Pháp về năm 1942, lúc đầu hành nghề ở Hà Nội, sau di dần về phía nam, Quy Nhơn rồi Sài Gòn Chợ Lớn. Cụ lập ra hãng dầu khuynh diệp “Bác sĩ Tín”- tức là thành phần “tư sản” giàu có rồi, cụ còn làm bác sĩ riêng cho gia đình họ Ngô và có lúc làm tới Bộ trưởng Thông tin ở chính phủ Ngô Đình Diệm một thời gian ngắn. Tức là nhà chú toàn người có đầu óc làm ăn cả, tuy ai cũng có phần bay bổng lãng mạn, mà biểu hiện rõ nhất là ông chú Bùi Giáng. Chú Thành có học bổng đi Mỹ nhờ một trường dòng (mặc dù gia đình không theo đạo nhé) nhưng vì “không có gì ngoài điều kiện” mà lại học tốt, nên chọn học ở Columbia – chú có lẽ là người Việt đầu tiên học về tài chính kế toán ở đây. Chú rất mẫn tiệp vào cái tuổi 95 này:
-Chú nói để cho các cháu sau này biết mà hướng dẫn cho con, cho cháu nhé! Tức là bên Mỹ có “Ivy League” là những trường đại học xuất sắc hàng đầu rồi, vừa có truyền thống, vừa đội ngũ giáo viên giỏi, nhưng điều rất quan trọng là môi trường học tập, trường thì chọn ta (sinh viên) phải đạt vào danh sách ví dụ 1-5% ứng tuyển thì mới đạt, nhưng ngược lại ta cũng có quyền chọn trường, nếu biết định hướng sớm, biết mình cần cái gì. Harvard chẳng hạn, rất truyền thống và giỏi, nhưng định hướng đào tạo ra các nhà quản lý xuất sắc (business management). Yale thì đào tạo giỏi về pháp lý. Có những trường không thuộc “Ivy League” nhưng cũng rất đẳng cấp, chẳng hạn MIT, đào tạo rất giỏi về khoa học công nghệ. Nhưng thời giữa thế kỷ trước thì người Việt có điều kiện là cứ phải “Ivy League” mới được. Chú được hướng vào học ở Columbia University là bởi đào tạo ở đây phù hợp nhất cho giới doanh chủ, chứ không chỉ là quản lý, và cái giới thương gia Mỹ thường hướng con cái học ở đây, sau này sẽ có những mối quan hệ đặc biệt. Ở đây lại được ở New York, trung tâm tài chính, có điều kiện để thực nghiệm, chiêm nghiệm luôn. Hay bà vợ của chú, là con gái của hai gia đình đều quan to dưới thời Pháp thuộc, thì được đi học ở Cornell, cũng không quá xa chỗ chú học, do đó mới làm quen nhau bên đó, bả học ngành quản trị các cơ sở đại học, giáo dục. Tức là từ khi trẻ ta có thể định hướng được sự học hành của mình, nếu biết rõ mình cần cái gì, muốn gì…
Chú Thành kể tiếp, rằng vì học ở New York nên số phận đưa chú tới một mối quan hệ định mệnh với ông Ngô Đình Diệm, khi đó đang ở bên Mỹ. Ông Diệm đang tá túc tại một tu viện ở New Jersey, mà lại toàn nữ tu, nên cũng rất ít điều kiện để tiếp xúc với người ngoài, do đó cuối tuần hay đi về New York đến nghỉ lại nhà người quen là ông Bùi Công Văn, cũng là người trong họ với chú Thành, ông Văn có bà vợ đảm nấu ăn ngon nên cả ông Diệm, cả chú Thành hay đến ăn món ăn Việt cho đỡ nhớ nhà. Chú kể: “ông Diệm khi đó mới 50 chưa gọi là già, thường đến lúc trưa thứ bảy, ông là người rất hay nói chuyện, thậm chí giỏi hùng biện, còn anh Văn thì mới 30, ít nói, chú còn mới 20 càng chả có gì để nói, vậy là ông Diệm nói từ trưa tới tối. Ngủ qua một đêm, sáng chủ nhật mình ông Diệm đi nhà thờ, sau đó trưa về ăn cơm, xong ông lại nói tới chiều, rồi mới đi về tu viện”. Ông Diệm ngoài tiếng Pháp xuất sắc ra thì tiếng Anh cũng rất ổn, ông có thể thuyết trình trước cử toạ về mọi vấn đề, nhưng cũng bận và không có nhiều điều kiện để tìm đọc các tài liệu tiếng Anh kỹ lưỡng. Ông thường giao cho chú đi tìm hiểu rồi tóm tắt lại cụ thể, ví dụ bộ “Tư bản” của Karl Marx viết về gì, hay “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” thực chất ra sao, hoặc “xem Commonwell của Anh có gì ưu, nhược điểm so với “Union” của Pháp”…Thường mỗi đề tài như thế chú xin chuẩn bị trong vòng một tuần, lên thư viện làm việc rồi ghi báo cáo tóm tắt để cuối tuần trình ông Diệm. Có thể nói một tình bạn vong niên đã nảy sinh giữa hai người…”.
Ông Ngô Đình Diệm về nước 1954 để ngày 7/7 trở thành thủ tướng, do Quốc trưởng Bảo Đại đề đạt không phải lần đầu. Lịch sử chưa có minh chứng rõ nét cho việc ông Diệm đạt được chức vụ này do có sự trợ giúp của người Mỹ - theo ý của chú Thành thì giới chức Mỹ đối với ông Diệm xuyên suốt bao nhiêu năm vẫn có thái độ lừng chừng, khó hiểu, chẳng có kế hoạch gì ra đầu ra đũa cả, nên không phải Mỹ đưa ông Diệm vào chức vụ này đâu! Nhưng tuy chưa có quyền lực tuyệt đối ở miền Nam lúc ấy, ông Diệm đã hành động rất mạnh mẽ, trong đó có việc triệu hồi những trí thức trẻ ưu tú đang ở Mỹ về nước để giúp chính quyền mới thành lập! Ngày 17/7/1954 điện tín có chữ ký của thủ tướng Ngô được gửi sang sứ quán Việt Nam tại Mỹ cho đại sứ Trần Văn Chương (bố của bà Trần Lệ Xuân) với nội dung triệu hồi ngay 5 sinh viên Việt Nam về nước gấp rút, đứng đầu là Bùi Kiến Thành! (4 sinh viên kia đều xuất sắc, cũng là bạn chú, đều đã được gặp ông Diệm từ trước rồi). Chú Thành rất nhớ những ngày nóng bỏng ấy: ngày 17/7 sứ quán liên lạc không được, bởi chú Thành đang đi Chicago cùng với các sinh viên Việt Nam yêu nước biểu tình…chống việc đất nước bị chia cắt làm đôi, trong đó có vai trò của chính quyền Mỹ! Hội sinh viên người Việt ở Mỹ khi đó đã biết dựa vào sự ủng hộ của người dân Mỹ yêu hoà bình, suốt ngày giương biểu ngữ, đi qua đi lại trước toà thị chính, …Đến khi đang về họp tổng kết thì thấy một đám cảnh sát ào vào, tá hoả cứ tưởng bị đàn áp, hoá ra không, toà đại sứ yêu cầu cảnh sát Mỹ tìm hộ mấy sinh viên có tên trong danh sách “TOP 5”. Chú Thành điện thoại tức tốc cho đại sứ, thì chỉ được truyền đạt là có lệnh của thủ tướng, phải bố trí cho 5 người này về nước khẩn cấp. Ngày 18 chú và 4 bạn thuê một chiếc máy bay charter bay từ Chicago về New York (đúng là nhà có điều kiện nên yêu nước dễ hơn thật!). Ngày hôm sau chú và cô người yêu con quan kia lập tức làm đám cưới, chú vẫn rất nhớ là vì các sự kiện tới dồn dập quá, tới mức đêm tân hôn hai người ngủ say trong hoà bình, như hai người đồng chí, không có gì xảy ra cả. Ngày hôm sau chú rể mới vẫn còn trinh trắng lên máy bay về nước, lần này vé do toà đại sứ lo cho rồi…
Họ được đưa thẳng về Dinh Gia Long, bố trí cho ăn nghỉ tại đấy luôn, chú tuy gia cảnh rất đồ sộ ở Sài Gòn, nhưng ở tận quận 6 nên cũng chả về nhà nữa, ở luôn tại đó cho tiện công việc. Chú nhớ ấn tượng hết hồn hôm đầu thiếu phòng, chú được phân ngủ phòng ngài Bảo Đại đã từng ngự ở đấy. Sau này dần dần mỗi sinh viên (như chú còn chưa kịp nhận bằng) được phân đi các chức vụ ở các cơ quan khác nhau, tuỳ theo ngành học và khả năng, còn chú thì vẫn được giữ tại đó, làm trợ lý cho cả ông Diệm, cả ông Nhu. Tuy hai vị này đều nói được tiếng Anh nhưng vai trò của chú là tiếp xúc với các đại diện phía Mỹ để hiểu rõ nhất ý đồ, tìm tiếng nói chung với họ. Về chức danh chú chỉ là Trưởng phòng ngoại hối của Ngân hàng Quốc gia (trên cơ sở Ngân hàng Đông Dương cũ), một ông Đốc phủ làm thống đốc, một vị giáo sư Pháp về là anh Vũ Quốc Thúc làm phó tổng. Ngoài việc ngân hàng chú Thành vẫn phải kiêm cả công việc trợ lý cho 2 sếp Diệm và Nhu! Rồi sau hơn một năm chú phải đi học nâng cao bên Mỹ (khi đó được thực tập tại ngân hàng thương mại 6 tháng, ngân hàng đầu tư 6 tháng); rồi được cử sang làm đại diện Ngân hàng Quốc gia Việt Nam tại New York, là người trẻ tuổi nhất trong hơn 60 đại diện ngân hàng trung ương các nước tại Hoa Kỳ từ 1956 đến 1958. Chú giải thích:
-Đúng nhất là nên gọi Ngân hàng Quốc gia, chứ không phải Ngân hàng Nhà nước, suy nghĩ một chút thì sẽ hiểu ra ngay. Nhưng thôi rồi sẽ tới lúc người ta thay đổi cho chuẩn hơn. Vai trò của chú khi đó là xử lý đầu bên kia cho khoản Viện trợ thương mại của Mỹ cho Việt Nam cộng hoà, 500 triệu USD khi đó là số tiền lớn lắm. Không phải thích tiêu gì là được đâu, mà phải thống nhất từng giao dịch, phía Mỹ có duyệt thì phía miền nam mới được dùng, ví dụ mua xe cộ, máy móc, nhu yếu phẩm…Chú ở giữa đôn đốc cả Bộ Thương mại ở miền nam, cả các ngân hàng Mỹ để thực hiện những giao dịch ấy – như một trung tâm điều phối. Chú về nước rồi bà vợ cũng về theo (rồi họ sinh được 4 người con). Nhưng chú lại có trọng trách đi mời một phái đoàn chuyên gia tài chính Mỹ về để rà soát hoạt động của các ngân hàng thương mại tại miền nam, khi đó mới bắt đầu hoạt động, sao cho đúng chuẩn mực quốc tế, cũng là lần đầu đấy!
Tuy là yếu nhân, ra vào dinh thự của anh em Tổng thống Diệm (sau năm 1955 Diệm đã trở thành Quốc trưởng, rồi Tổng thống) như cơm bữa, nhưng chú không mặn mà nữa với con đường chính khách. 1959 chú xin phép Tổng thống ra làm tư nhân - vì vẫn nhớ mình được đi học để làm doanh chủ, để kinh doanh, và muốn có những trải nghiệm thực sự trên con đường này! Kinh doanh ư, chú cùng một tập đoàn sản xuất pin Philippin và dùng giấy phép của một tập đoàn Mỹ để lập ra liên doanh có lẽ là đầu tiên có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam sau 1954, đó là nhà máy pin nằm tại đất của gia đình chú (mà nay là Sonadezi của Biên Hoà) – Vietnam Automotive Battery Manufactoring Company. Sản phẩm được xuất khẩu và bán trong nước chạy như tôm tươi, chất lượng tương đương với sản phẩm Mỹ; chú tập trung mấy đại gia người Việt để phân phối và sản xuất linh phụ kiện cũng đang trôi chảy…nhưng sau khi tai hoạ ập xuống chú và gia đình thì sau 1975 được chính quyền quốc hữu hoá và mua lại (tuy chưa trả tiền bao giờ) – rồi sau bao nhiêu vận đổi sao dời nó trở thành PINACO lừng lẫy, cũng tư nhân hoá, cổ phần hoá từ bao giờ mà chú và gia đình chưa hề được thông báo gì, ngoài quyết định quốc hữu hoá. Song song, chú được chính Công ty Bảo hiểm quốc tế Mỹ American International Underwriters, Vietnam, Inc., tìm đến để chọn làm tổng giám đốc vùng kiêm chủ tịch, mới 27 tuổi, trẻ nhất trong số các lãnh đạo thành viên tại châu Á. Mỹ thay Pháp ở miền nam và công ty tài chính lớn nhất thế giới này (khi đó đã có chi nhánh ở 130 quốc gia) tìm một người Mỹ học để thay vào TGĐ vốn là người Pháp.
Những tưởng công việc cứ thế êm xuôi, nào ngờ Mỹ lật đổ chế độ Diệm-Nhu. Trong danh sách những kẻ cần đối xử đặc biệt nghiêm cẩn có:
1.Ngô Đình Diệm
2. Ngô Đình Nhu
…
…
12. Bùi Kiến Thành
Tất cả bị bắt giam ở Võ Tánh (trại giam của Sở cảnh sát). Theo chú Thành thì ngay cả đối với cái chết của anh em ông Diệm thì Mỹ cũng có một ảnh hưởng không rõ ràng, có lẽ do phe quân đội mạnh tay mà làm bừa chứ chả phải chủ kiến của Mỹ. Còn chú Thành khi đó hơn 30 tuổi, phải cùng 11 bạn tù cởi trần, mặc quần xà lỏn nằm trong xà lim 2x2m, nóng bức với các bức tường miết tay vào đâu cũng có rệp máu đỏ tươi. Rất nhiều người nao núng tinh thần, nhưng đối với chú 15 tháng tạm giam này lại là một trải nghiệm có lẽ đẹp nhất cuộc đời. Bên phòng giam bên cạnh có anh bạn tù không thấy mặt suốt ngày đọc kinh “Bát Nhã Ba La Mật Tâm Kinh…”. Chú vốn không theo một tôn giáo nào, bỗng thấy bài kinh có một sức truyền cảm vô cùng mạnh đối với mình…
---
Phần 2 – XA NƯỚC RỒI CÀNG HIỂU NƯỚC ĐAU THƯƠNG
-
Thế là chú Thành nhờ người nhà mua cho cả đống sách về các loại tôn giáo khác nhau gửi vào nhà tù để đọc và chiêm nghiệm: đạo Phật, đạo Thiên Chúa, Lão Tử, Đạo Đức Kinh, đạo Hồi, đạo Dừa, đạo Mẫu…thôi thì đủ loại. 15 tháng trôi nhanh và nhờ gia đình chạy nên ông được tha. Tuy vậy hàng tuần vẫn phải lên Sở cảnh sát khai báo hết chuyện nọ tới chuyện kia, chẳng khác gì tội phạm, chú hiểu kiểu này ở đây mình không còn làm ăn được gì nữa rồi…
Chú tin vào số phận. Chú đã vào chùa ở mấy tháng cho thanh tịnh, thế mà cũng vẫn bị lôi về nhà để trình báo. Rồi có anh bạn tù có rất nhiều quan hệ bên Pháp quốc, mới gặp chú hỏi “mày có muốn qua bên đó không, đi với tao?”. Thì đi, vợ và 4 con thơ sẽ đi sau thôi! Đúng hẹn ngày giờ, chú ăn mặc đẹp như dự tiệc, tay xách cặp ung dung bước lên một con tàu của Pháp đang đứng ở bến Nhà Rồng, chiều hôm đó trên tàu có một buổi dạ tiệc. Ông bạn tù cùng bạn gái khoác tay nhau lên tàu. Sau buổi tiệc cả ba người được dẫn xuống hầm tàu để ẩn ở đó, rồi sáng mai tàu nhổ neo ra khơi…”Sóng dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương”. Ra đến hải phận quốc tế họ mới được chui lên, và chỉ phải trả tiền vé cùng “dịch vụ phí” mất 1500 USD, chú Thành sang tới Marseile. Cùng thuỷ thủ đoàn ra khỏi cảng thế là xong dịch vụ “đưa người”, ba người Việt hoà vào đám đông nước Pháp, nơi chú Thành đã từng tới trường từ bé…
Em chú, kiến trúc sư Bùi Kiến Quốc là người học một trường kiến trúc rất nổi tiếng ở Pháp, kém chú hơn chục tuổi là người đón anh tá túc. Rồi vợ con được tin chồng đã tới nơi, họ cũng “vượt biên” nhưng nhàn hạ hơn chú rất nhiều. Cũng bởi trong diện bị theo dõi, vợ chú và 4 con (2 trai 2 gái) đã đi qua Cao Miên từ An Giang, nhàn tản như đi du lịch, rồi từ đó mua vé máy bay bay qua Đức, ở đó có người đón đưa sang tận Paris. “Dịch vụ” cao cấp ấy cũng mất mấy căn nhà, nhưng xứng đáng thôi! Các con chú đi học đều rất giỏi, còn bà vợ không làm theo nghề học nữa, mà quyết định mở nhà hàng ẩm thực Việt tại Paris. “Asian Gourmet” ở quận 5 khá nổi tiếng, báo chí hay đề cập tới, trong đó có người khách ruột thường ăn cơm trưa không ngờ sau lại trở thành giáo chủ Khơmeni của đất nước Hồi giáo Iran. Nhà hàng này nằm đối diện một đền thờ Hồi giáo rất nổi tiếng nên cả thế giới Hồi giáo hay tụ tập tại đây. Còn chú và người em lo làm “bất động sản”…
Chú thấy quanh thủ đô không có nhiều cơ hội phát triển như miền nam nước Pháp, đất đai rộng rãi, thiên nhiên đẹp và còn chưa phát triển đủ. Lại cơ duyên đưa chú làm quen với một “ông trùm” bất động sản nay đã trắng tay, dự án bị ngân hàng tịch thu để gán nợ. Tìm hiểu về dự án cạnh bờ biển này, chú và người em thấy rất khả thi, tiếc rằng không còn kinh phí để làm, chủ dự án bó tay…Chú đàm phán với chủ dự án để cho mình tiếp tục triển khai, rồi tới nói chuyện với ngân hàng. Chú đàm phán: nếu để thế dự án chết, ngân hàng mất tiền, nhưng nếu làm tiếp bán được thì ngân hàng có cơ hội thu lại được vốn với lãi, cần phải làm tiếp hạ tầng và sửa đổi một chút…Ngân hàng thấy có lý, ký hợp đồng với chú, tức là chú không mua dự án đó, mà qua công chứng tất cả tiền ra tiền vào, tự ngân hàng trích ra tiền nào của mình, tiền nào trả cho bên chú. Có hợp đồng thế rồi, chú lại đi thuyết phục các nhà thầu, họ cũng bị “trói vốn”tại đấy, nếu cố làm tiếp thì chú sẽ bán được hàng (hơn trăm căn biệt thự đấy) rồi lại công chứng trả lại tiền cho họ, họ cũng quyết tâm làm theo cách đó! (Chú cười: nếu trẻ thì ở Việt Nam chú sẽ làm như vậy, để cứu Novaland chẳng hạn). Thế là cứ hết dự án này ngân hàng lại giới thiệu tiếp dự án khác…Cứ thứ sáu chú đi xe lửa về Paris, tối chủ nhật lại đi khỏi nhà bằng xe lửa xuống Toulon ở Pháp, rồi đi tới thành phố nhỏ ven biển, cũng may là Pháp có luật ai có 4 con thì giá xe lửa chỉ còn 10% nên thoải mái đi hạng nhất, ngủ một đêm là tới. Cuộc sống cứ thế êm trôi…”một mái nhà yêu rủ bóng xuống tâm hồn”! Không quên Mỹ, chú còn làm thêm giám sát khu vuẹc Chicago cho tập đoàn tài chính khổng lồ năm xưa, nay đã đổi tên là AIG.
Chú Thành có quan hệ tốt với đại diện sứ quán Việt Nam dân chủ cộng hoà, mặc dù ở nhà sau này bị quốc hữu hoá nhà máy pin, còn gia đình thì mất cả hãng dầu khuynh diệp do ông Tín lập ra cùng rất nhiều đất đai. Vẫn nghĩ thế này chả có bao giờ lại về quê hương, thì đầu năm 80 có người đại diện cho ông Phạm Hùng, khi đó mới Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng sang Pháp tìm gặp. Họ kể về tình hình cuộc sống ở nhà đầy rẫy khó khăn, sau chiến tranh biên giới và ở K thì càng lao đao về kinh tế. Chú hỏi “sao lại tìm tôi, tôi là tư bản gộc đấy?”. Người ta bảo tình hình nghiêm trọng lắm rồi, cần tham khảo ý kiến của chú. Chú nói, chỉ chấp nhận đối thoại nếu hai bên thực sự cởi mở, gọi sự vật theo đúng bản chất của nó. Nhất trí, chú mới bảo: “kinh tế quốc doanh của các vị không cho dân làm ăn, kể cả trồng rau, chăn gà, bắt cá,…không cho làm ra sản phẩm, trao đổi sản phẩm, ngăn sông cấm chợ, thì nghèo là chắc chắn rồi!”. Có cãi được không? Thôi anh xem từ cổ chí kim có đất nước nào mạnh mà dân lại nghèo không? Từ thời Hy lạp hay vua Hùng đến giờ, nếu không có thì đừng kêu gọi “vô sản” nữa! Họ vò đầu bứt tai, hiểu thì hiểu nhưng báo cáo thế thì khuyết điểm chết! Lại phải tìm giải pháp, thôi coi như đấy là ý kiến ông Thành, mà tốt nhất ông Thành viết ra một tờ A4, họ chỉ cần đem về trình cấp trên như thế là xong. Có 3 điểm: dân phải giàu, phải cho họ làm ra sản phẩm, phải cho họ trao đổi sản phẩm…
4 tháng sau họ quay lại, báo rằng lãnh đạo đã chấp nhận về nguyên tắc góp ý của chú, nhờ chú cùng lãnh đạo để từ các nguyên tắc này để làm ra chính sách cho phát triển kinh tế. Nói thì đơn giản thế thôi, chứ suốt mấy năm đầu 8X chú làm việc với “bên nhà”, từ lúc ông Phạm Hùng lên Chủ tịch HĐBT rồi từ trần, các vị khác lên thay công việc vẫn được tiến triển. Có công lớn của ông Kiệt, triển khai các nguyên tắc mới ở Sài Gòn khá thành công, nhờ đó 1983-1985 trong nam phát triển tốt, có cơ sở để thuyết phục các vị lãnh đạo khác. Bộ ba ông Hùng-ông Kiệt-ông Linh có tính cách Nam Bộ (dù ông Linh người bắc nhưng ở trong này lâu) mới có thể làm được! Nghị quyết đại hội VI là một kiệt tác về từ ngữ, tất nhiên là công sức của rất nhiều người:
“…là một cuộc cách mạng vĩ đại mà ổn định… Việt Nam là một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, vì dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh…”. Từng chữ là một cải tiến mà rất nhiều vất vả mới đạt được! Có cơ sở để cải tạo nền kinh tế đang vận hành trái quy luật thị trường, từ trạng thái “tường cao hào sâu” ta chuyển dần sang “mở cửa” (nhưng quyết không “mở cổng”).
Nhưng Mỹ đang cấm vận, thì làm sao mà vượt qua được, mà bang giao? Chú đã nhận quốc tịch Mỹ, khi đó Việt Nam cực vất vả vì đâu còn viện trợ của Liên Xô và các nước XHCN nữa. Chú được mời về để giúp chính phủ thiết lập lại bang giao, chứ cấm vận rồi làm sao mà ai đi được, đi cũng đâu cho gặp được ai, mà cũng chú Thành về Việt Nam được chứ họ làm sao sang gặp chú?! Chú cũng lăn tăn, BĐS đang buôn bán tốt, vậy thì bỏ để về cũng uổng…Nhưng rồi 21/11/1991 chú có mặt ở Hà Nội, từ đó trở đi mọi chi phí đi lại ăn ở chú đều tự trả, đúng luật của Mỹ, không là lôi thôi to! “Cộng sản” cũng có tài tổ chức công việc lắm, một vị thứ trưởng Bộ Nội vụ được phân công làm việc với chú, và báo cáo trực tiếp lên Bộ Chính trị, đó là ông Lê Minh Hương, khi đó đang đeo quân hàm thiếu tướng. Chiến lược nào đây, để tiếp cận phía Mỹ mà không bị lép vế? Chú bảo với ông Hương: “các anh còn giam giữ 15 nghìn người của phía cộng hoà, là những người thân cận với Mỹ, đã 16 năm rồi, các anh có sợ họ không?”. Câu trả lời: “Sợ gì mà sợ!”. “Vậy các anh có sẵn sàng thả họ ra không, để tôi có cớ mà tiếp xúc với phía Mỹ?”. Ông Hương báo cáo lại BCT, sau 20 ngày câu trả lời là “Có!”. Tiếp tục: “Các anh thả tự do cho họ hoàn toàn, không giữ lại ai hay vẫn giam lỏng vậy?”. Lại 2 tuần sau câu trả lời: “Hoàn toàn!”.
Các bạn chú bên Mỹ mới phản hồi, rằng liệu thế có cho họ đi Mỹ được không? Chú lại qua ông Hương, câu trả lời là “Đồng ý”. Lại câu hỏi tiếp: “Thế họ đi thì gia đình được đi theo không, chứ họ nỡ nào đi một mình?”. “Cho đi theo!”. “Thế gia đình là chỉ có vợ con, hay là gia đình nội ngoại?”. Kết quả, ai trong gia đình lớn muốn đều có thể đi theo. Vì thế đó chính là sự mở đầu, quốc hội Mỹ ra nghị quyết, duyệt ngân sách và tài khoản HO đấy để trợ giúp cho số người này! Từ 1992 đến 1995 có 300 nghìn người Việt được đi theo diện này, mỗi người sang Mỹ được trợ cấp 500 USD/tháng…Đối thoại Việt Mỹ cứ thế được bắt đầu.
Phái bộ tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA) có văn phòng tại Hà Nội, cũng nhờ chú tác động, bởi họ biết trong Bảo tàng quân sự tại Việt Nam có lưu giữ thông tin về toạ độ 5000 lính Mỹ mất tích, mà không cách gì tiếp cận được – tay trưởng văn phòng người Mỹ, chức đại tá, nói tiếng Việt cực sõi. Chú Thành về nói lại với ông Hương, phía ta tuy chả tiếc gì, tin của Mỹ hoàn toàn đúng, nhưng tài liệu khu này đóng dấu “Tối mật”, không có nguyên nhân đặc biệt thì không thể giải mật được đâu. Về bàn lại với MIA, chú đề nghị với phía Việt Nam: “Phía Việt Nam nếu có viết lịch sử quân đội hào hùng của mình, thì phía Mỹ sẽ tài trợ thuê một nhà báo Mỹ sang, để giúp Việt Nam tìm hiểu, thu thập thông tin giúp!”. Việt Nam hiểu ý, đồng ý ngay, người Mỹ kia sang “vô tình” đi vào khu vực thông tin mật của Bảo tàng, dùng một máy scaner đặc biệt để chụp hàng nghìn tài liệu. Lần đó Tổng thống Bush đi công cán ở Honolulu, có trợ lý nhấc điện thoại gọi ngay cho tay trưởng phái bộ MIA, hỏi đi hỏi lại “Các anh đã lấy được hồ sơ đó chưa?”. Câu trả lời “Yes, Sir!” làm đầu dây bên kia cũng thở phào – chú được mời chứng kiến giây phút đó…Bắt đầu một số khoản cấm vận Việt Nam được Mỹ từ bỏ. Nó được in hết ra, rồi cất vào một thùng to tướng ở cơ quan MIA, nhưng mang về thế nào? Máy bay Mỹ thì đứng ở Nội Bài, từ đó ra sân bay cũng là sự phối hợp rất ăn ý của cả hai bên, ông được sự giúp đỡ của ông Lê Mai thứ trưởng ngoại giao, và một anh vụ trưởng vụ Bắc Mỹ là Nguyễn X.P. cùng đi với đại diện sứ quán Mỹ, mọi sự đều tốt đẹp.
Một lần ông Kiệt mời chú tới cơ quan, bảo: “Mỹ còn đang cấm vận, nhưng tôi muốn mời một tập đoàn nào thật lớn đầu tư vào ta, thì phải làm thế nào?”. Ý tưởng mà ông Kiệt truyền tải, là muốn Mỹ có tập đoàn nào “xịn” vào đầu tư cảng Đình Vũ ở Hải Phòng, đạt được một lúc mấy mục tiêu: để tỏ ra thân thiện với Mỹ và lôi kéo nhiều nước khác đầu tư vào ta, làm dịch vụ cho Trung Quốc vì Hải Phòng rất tiện cho hàng hoá Trung Quốc phía nam kéo ra biển sang đây, và cắm lá cờ Mỹ để Trung Quốc cũng phải dè chừng ta! Chú Thành nghĩ ngay đến AIG của mình, chủ tịch tập đoàn mẹ vào làm năm 1960, còn sau chú 1 năm. AIG cũng rất sẵn sàng, nhưng vướng cấm vận…”Không sao, ký hợp đồng với điều kiện khi nào Mỹ bỏ cấm vận thì thực hiện!”. Một đoàn của AIG bay từ Mỹ qua Thái Lan, về Hà Nội, từ đó trực thăng (thuê của quân đội) đưa xuống Hải Phòng, ăn trưa rồi làm việc với lãnh đạo thành phố, một MOU được ký! Chú Sáu mừng lắm, còn tin tức loan ra, rất nhiều doanh nghiệp Nhật hồ hởi lao vào ký với Hải Phòng, dần dần thành lập nên KCN Nomura.
Lại vụ khác, ông Kiệt mời chú Thành đến, lần này là “ca khó”. Một tập đoàn dầu khí Mỹ ký kết thăm dò khai thác với tập đoàn Trung Quốc, nhưng tại biển Đông, ngay đối diện Phú Khánh, mà ở chỗ ta coi là thềm lục địa của ta, làm sao? “Sao anh không cho hải quân oánh cho nó một trận?” – chú trêu vậy! Rồi chú bày cách: tập đoàn Mỹ thì không sợ trời sợ đất gì, chỉ có sợ phạm luật Mỹ thôi, mà đang cấm vận Việt Nam lại động đến lãnh thổ Việt Nam là phạm pháp! Nhưng ta phải có luận chứng rõ ràng, vì sao họ vi phạm cơ. Mà luật biển hồi đó của Việt Nam còn thô sơ, và viết không phải bằng ngôn ngữ của luật quốc tế, không dùng được để kiện nó đâu! Phải thuê công ty luật hàng đầu thế giới của Mỹ về luật biển, họ viết lại cho đúng kiểu, rồi họ sẽ doạ tập đoàn Mỹ kia được. Việt Nam đồng ý, nhưng công ty luật kia cũng thuộc diện cấm vận, thì mình trả tiền thế nào để thuê họ, ký với họ? “Thì họ phải đi chạy luôn cả cái đó cho họ nữa!”. Mà việc đó không cơ quan nào có thể đảm đương được, ngoài Tổng thống Mỹ. Chú Thành bay về Mỹ, liên hệ với công ty Luật kia, họ rất chuyên nghiệp và lobby giỏi thật, chưa đến 1 tuần mà Tổng thống Mỹ cho phép họ ký hợp đồng với phía Việt Nam, họ bắt đầu ký và thực hiện mất 2 năm mới xong hợp đồng, tháng 7/1995 mới kết thúc về Luật biển Việt Nam (sau khi bỏ cấm vận 2 tháng), nhưng công việc cực kỳ chuyên nghiệp và cặn kẽ. Kết quả sau đó là tập đoàn dầu khí Mỹ sợ sun vòi, thôi chả bắt tay với Trung Quốc trong vụ này nữa…
Vừa làm cho AIG vừa giúp cho cả 2 chính phủ, cứ thế chú Thành tiếp tục ở lại Việt Nam tham gia vào rất nhiều công việc, từ đó tới nay chú ở Hà Nội là chính, gần 30 năm, rồi vài năm sống ở Hội An (cùng với chú em Quốc về đó sống, ông Quốc là 1 trong 100 thành viên của Viện Hàn lâm khoa học Pháp) nhưng khí hậu không hợp, nay chú đang sống bình dị tại Sài Gòn, một căn chung cư chú thuê để ở (người Mỹ đâu có dễ mua nhà cửa gì!). Hình như bởi có sự chung tay của những trí thức trong và ngoài nước như chú Thành, mà kinh tế nước ta có chiều tăng trưởng đáng ghi nhận, “mái rạ nghìn năm hồng thay sắc ngói/những cuộc đời thường cũng có bóng hoa che…”. Chú tâm sự, rằng chỉ còn hai điều nguyện ước muốn góp sức làm cho được tại Việt Nam, cũng đều là những điều chú tâm đắc đã hàng chục năm trời…
(Còn nữa, nếu có 666 like ủng hộ, xin cám ơn!)
Ghi chú: người đánh máy hoàn toàn không có ý muốn thể hiện rằng việc “ông Diệm với Mỹ” hay việc “bỏ cấm vận” chỉ có công sức đóng góp của mỗi chuyên gia Bùi Kiến Thành. Hiển nhiên trong mọi thành công đều nhờ vào sự chỉ đạo sáng suốt…, các lãnh đạo anh minh…rồi biết bao người vỗ tay vào nữa! Đây chỉ là câu chuyện đời người, 95 năm có đủ hỉ nộ ái ố và duyên nghiệp.
Ảnh: chú Thành và đại tướng Võ Nguyên Giáp (St).
---
Phần 3 – ĐẤT NƯỚC ĐẸP VÔ CÙNG
-
(Dành cho người đọc chậm! Tiếp theo của:
https://www.facebook.com/.../pfbid0LmvGGP5QxgrveKkgTUjnSU... )
Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
(Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên)
Tôi đến với chú Thành thực ra không phải để hỏi về cuộc đời của “người mở khoá”, mà để hỏi về vụ “46%” và “TTTCQT” cơ, nhưng “cụ” lại giải thích theo cách riêng của “cụ”. Tức là khi ta đã “ngộ” ra rồi, chọn được con đường đi rồi, định hướng rồi thì cứ thế mà đi, đừng có “lang bang” – một từ mà người miền Trung mới hay dùng (bố tôi ngày trước cũng hay dùng từ này để nói tới việc lớp trẻ hay dao động ba lăng nhăng chi khươn, la cà đây đó chả để làm gì cho đời, cho mình…). Và câu chuyện đời của chú Thành chính là minh chứng cho điều “đừng lang bang” này. Chú bảo, chẳng bao giờ mất thì giờ đến những cuộc gặp trời ơi, mà chỉ vì ở đó có sự hiện diện của lãnh đạo cấp cao. Không họp hành trịnh trọng, thi đua khen thưởng, vinh danh ca ngợi. Chẳng mâm cao cỗ đầy, karaoke với đãi đằng yến tiệc. Ai mời đi nói chuyện về chuyên môn thì sẵn sàng ngay, bây giờ thì yếu rồi nên tăng cường làm việc online. Tôi chứng kiến khi đang nghe chú nói chuyện thì dăm bảy cuộc điện thoại gọi tới hẹn gặp, mời hội thảo…nhưng chú trả lời rất lịch sự và chuyên nghiệp, rằng đang có khách nên sẽ chờ cuộc gọi lại sau….giờ. Với chúng tôi cũng vậy, chú không cần đi sâu vào tìm hiểu là ai, làm gì ở đâu thế nào…mà đi ngay vào bản chất vấn đề, nguyên nhân gì khiến chúng tôi tìm tới chú. Vẫn giống như 30 năm trước, một căn hộ thuê ngoài Văn Cao, Hà Nội nhìn ra hồ Tây – nhưng thời đó chú trẻ lắm, và chú nói gì cao siêu lũ trẻ chúng tôi khi đó còn chưa hấp thụ được bao nhiêu – nào đã làm gì có thị trường chứng khoán, quỹ đầu tư, ngân hàng đầu tư, trái phiếu…gì đâu! Bây giờ chúng tôi đã hiểu được nhiều hơn nhiều, nhưng than ôi, đã quá “lục tuần”, gần như chú Thành lúc đó, còn chú thì già đi nhưng vẫn như xưa, vẫn một căn chung cư nay thuê ở quận 7, vẫn giọng nói đều đều dễ nghe, vẫn muốn đem lại hiểu biết bổ ích cho người đối thoại. và chú, một người đã U100, lại quay ra động viên những kẻ “trẻ quá”, thua mình hơn ba chục tuổi, rằng làm gì cũng không bao giờ muộn, kể cả làm business, kể cả làm những việc mình theo đuổi hai ba chục năm mà vẫn chưa tới ngày “nhú mầm” chứ chả nói gì tới “hái quả”. Qua câu chuyện ta thấy chú là một người cực kỳ lạc quan, thông tuệ, tâm trí vững vàng và không hề hối tiếc về bất cứ điều gì trong quá khứ, có lẽ chỉ trừ cái chết của người con trai rất đẹp và giống bố, theo chú về Việt Nam rồi mất đã hơn chục năm trước.
Về vụ “46%” thì đấy, câu trả lời chính là đời chú, đừng “lang bang”, tức là nếu chúng tôi không phải lãnh đạo bộ ngành gì, cũng chả xuất nhập gì với Mỹ, thì sao mà phải rộn hết cả lên? Nhưng chú nói thêm một điều tâm đắc, mà đã nhắc tới trong nhiều lần phỏng vấn rồi, rằng “để cho mấy ổng hiểu” – mấy ổng đây là các lãnh đạo nước nhà – nước ta có vị trí địa chiến lược tuyệt vời như thế nào:
-Dân ta cũng không giỏi giang thông minh gì hơn các dân tộc khác đâu, nhưng đất nước ta có một vị trí thật tuyệt vời. Cái này Mỹ rất hiểu, và chú nói ra ý kiến này là theo cách nhìn của người Mỹ đấy. Tức là bây giờ tới kỷ nguyên của châu Á, và nước ta nằm giữa tâm điểm không phải chỉ là tâm điểm của ASEN (Đông Nam Á) đâu, mà là tâm điểm của Đông Dương (Indo – Chi na) nữa, tức là nằm giữa hai cường quốc hàng đầu của thế kỷ 21 đấy – chính nước Mỹ đã chuyển “trục quan tâm” từ châu Âu sang châu Á mấy năm rồi! Và chú theo đuổi ý tưởng biến Vân Phong thành cảng trung chuyển quốc tế hàng đầu là vì vậy, có lẽ 45-50% lượng hàng hoá của thế giới sẽ đi qua vùng biển này, mà Vân Phong có vị trí và tiềm năng hơn đứt Singapore, chưa nói tới Mã Lai hay Inđô. Nếu Thái Lan đào kênh đào Kra (kênh đào Thái) thì tốt thôi, họ sẽ làm sớm thôi, Vân Phong sẽ “lên ngôi”. Ở đây sẽ có khu kinh tế mở lớn hơn Hà Nội, lớn hơn Hồ Chí Minh, bằng 2 Singapore, lớn hơn Melbourne, Sydney – một dự án xuyên thế kỷ! Cảng lớn đầu tiên thích hợp sẽ là Sài Gòn, nhưng sau này phải là Vân Phong! Tiềm năng kinh khủng thế đấy mà vẫn ậm ạch, có 2 nguyên nhân: có những vấn đề ngoại giao chưa thể giải quyết ngay, và không có tiền! Chú cũng nhớ như in từng bước đi của dự án: chính phủ bắt đầu nó vào 2006, nhưng dự án khổng lồ này được giao cho…UBND tỉnh Khánh Hoà, thì làm sao đúng tầm được! (Đấy là chưa nói tới việc lãnh đạo tỉnh này có truyền thống lần lượt vào lò – tôi trộm nghĩ thêm). “Giao con ếch kéo cái xe bò” - cho nên 20 năm nay, Vân Phong vẫn tắc. Chú Thành đưa đại sứ Mỹ tới Vân Phong, và tới Cục Hàng hải, trình bày về mô hình một “cảng lưỡng dụng như cảng Oakland bên California”. Chú đề nghị Mỹ bỏ tiền đầu tư, Việt Nam sẽ không dành cho Mỹ làm căn cứ hay bàn đạp gì, nhưng sẽ ký hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo dưỡng, sửa chữa, cung cấp lương thực, nguyên nhiên liệu… cho tàu bè Mỹ qua đây bao nhiêu năm hay trọn đời…(có hình bóng của vụ “bất động sản miền nam nước Pháp” phải không nhỉ?!). Vân Phong không chỉ phát triển 5 hay 10 tỷ USD mà phải là 100 tỷ USD trong 5, 10 năm tới hay 1000 tỷ USD cho 20 hay 30 năm tới!
Tôi quan ngại rằng nước ta còn đang vướng tranh chấp biển đảo với láng giềng, cả mấy chú, thì chú Thành gạt đi:
-Trump bây giờ gọi “Indo Pacific Economic Area” tức là từ Nhật, Đại Hàn qua TQ, chạy tới tuốt Băngladesh, Pakistan, Ấn Độ…hơn 50% dân số thế giới, hơn 50% GDP thế giới, lại vẫn trên đà phát triển – không như châu Âu già cỗi hay Trung Đông lục đục – Việt Nam chính là trung tâm châu Á Thái Bình Dương, từ mình bay đi đâu cũng chỉ không quá 5 tiếng, như quay com-pa! Việt Nam là lựa chọn tối ưu, trong thế kỷ 21-22 là trung tâm điều phối của Bắc Á, Nam Á!!! Vai trò lớn vậy đấy, các lãnh đạo cũng bắt đầu hiểu ra! Trời đất mà còn cho tôi sức khoẻ thì tôi sẽ còn được giúp các anh ấy để làm trọn sứ mệnh…
“Chả hiểu mình có được chứng kiến không, còn chú vẫn lạc quan…” Tôi thầm nghĩ vậy và quay sang chủ đề thứ hai, vì lý do gì mà chú ủng hộ lập Trung tâm Tài chính Quốc tế ở HCM, nơi theo ý chủ quan của tôi và nhiều người khác, là không thích hợp vì đất chật người đông, làm sao cải tạo được môi trường sống cho tư bản bốn phương kéo vào. Chú giải thích như sau:
-Sing hay New York cũng có nhiều bất cập, họ cũng phải lựa cái khu vực (“district”), chẳng hạn New York lúc đầu trung tâm tài chính nằm ở phố Wall, rồi dời lên Midtown (từ đường 50 trở lên) cho rộng chỗ, nhưng rồi không đủ lại dịch thêm lên nữa, tản ra…Trung tâm tài chính số 1 thế giới mà còn phải vậy, thì HCM còn “cơi nới” được. Tất nhiên TTTC không phải là mấy khối nhà cao tầng bóng loáng…20 TTTCQT lớn trên thế giới thì 5 cái ở Mỹ, 5 cái ở rải rác đây: số 1 New York, số 2 London, số 3 Hồng Kông Thượng Hải, số 4 Singapore... Mình giữa Sigapore và Thượng Hải, có cái rất may là chênh New York đúng 12 tiếng, họ đóng cửa thì đúng lúc ta mở! Vô hình chung mình trở thành đối trọng của New York bên này bán cầu – tất nhiên mình sẽ không bao giờ bằng Thượng Hải Hồng Kông vì kia có cả nước TQ đứng sau, nhưng bằng và hơn Singapore (rất mạnh đấy) thì có thể! Hiện nay thị trường chứng khoán Thượng Hải tổng tài sản 46 nghìn tỷ USD, thì 2 TTCK lớn của New York là 26 nghìn tỷ và 25,6 nghìn tỷ - Thượng Hải mới qua mặt Singapore không lâu, rồi sẽ qua mặt New York thôi…Trong 5 năm nữa mà làm tốt thì vị thế của Việt Nam lớn lắm!
Tôi lo lắng rằng mấy người biết việc như chú thì già quá rồi, còn thì toàn hô hào làm sao xây dựng TTTCQT trong vòng 10 năm nữa, thì chú bảo đó là “tào lao”, không phải vì chú già mà muốn nhanh đâu, mà làm thì phải làm ngay! Nó cũng “tào lao” như Đà Nẵng định làm TTTC “khu vực” – đã IFC rồi còn phân chia ra “thế giới” với khu vực làm cái gì? Chú bảo đừng lo không có người làm, mình lôi kéo được các tập đoàn quốc tế vào thì chính họ đưa người giỏi vào vận hành – miễn là ta có cái gì “môi trường tốt” đưa ra cho họ thấy hấp dẫn mà thôi, phải biết “tổ chức” – cần thì thuê, ngay người Việt nước ngoài giỏi cũng nhiều lắm! Cần “môi trường” đừng đòi hỏi visa, có trường tốt, bệnh viện tốt, an toàn cho họ và gia đình, có chỗ vui chơi du lịch… Cái chú thấy lo nhất là rào cản các dự án lớn của Việt Nam, là “tư duy nhiệm kỳ”. Ví dụ ư: ông Phan Văn Mãi đang ở HCM, phụ trách TTTCQT, bắt đầu hiểu ra vấn đề, đương theo dõi rất tốt thì bị điều ra bắc làm quốc hội…Ông Được, ông Nghị về HCM, lại bắt đầu tìm hiểu từ đầu, cứ thế là chậm thôi! Chú đề nghị: “Tổ chức một tập thể chuyên gia, làm việc không có nhiệm kỳ”. Trong tập thể đó, có thể có tới 80-90% là người quốc tịch nước ngoài, không sao cả.
Tôi hỏi chú hình dung thế nào về việc bắt tay xây dựng TTTCQT, chẳng hạn ở HCM (chứ chú chả tin vào Đà Nẵng), thì chú bảo rất cụ thể đấy: chủ nhà phải có 10 tỷ USD cho 5 năm tới, 20-30 tỷ cho 10 năm tới – cái đó vừa khó vừa rất dễ! Chẳng hạn các tổ chức tài chính quốc tế mà chú có thể liên hệ và kêu gọi thì kể cả 100 tỷ đâu có là giới hạn gì với họ đâu, miễn là chủ nhà phải “biết chào mời cái gì” thôi…Tiền đâu có thiếu – thiếu môi trường đầu tư!
Chú nhắc lại, tiền trên thế giới rất nhiều, đừng lo mình ít tiền, hãy lo “mình có cái gì” đi trước đã! Và khó thì cứ tới hỏi chú cách giải quyết, cũng như năm nào người đại diện của ông Phạm Hùng tìm tới chú. Miễn là gọi đúng tên sự việc theo bản chất của nó…Tôi lại lo hão, rằng vì chú cứ giúp không mà không lấy xu nào từ phía chính phủ Việt Nam, thì họ sẽ ngại mà bớt nhờ chú đi, cứ mày mò tự làm lại nhầm, lại lâu thì sao. Thì chú rất rạch ròi: “Mình sẽ kêu gọi đầu tư, nhiều đứa quen chú là tỷ phú và muốn tìm dự án tốt lắm chứ. Giới thiệu dự án tiền tỷ, thì theo thông lệ quốc tế mình đã có nhiều triệu rồi, chưa kể mình với họ sẽ cộng tác, mình là found manager, họ là found owner, nếu hoạt động tốt thì chia nhau thiếu gì…”.
Nhưng rồi chú giới thiệu với chúng tôi một thanh niên, là đứa cháu, làm kiến trúc sư, đang theo đuổi một dự án cũng thuộc loại “to và khó nhằn”: làm một “Silicon Highland” thế chỗ cho Silicon Valley – to gấp 2, tất nhiên đẹp và văn minh hơn, ở…Di Linh. “Quả là dòng máu Bùi Giáng có trong những con người đầy mơ mộng lãng mạn này” – tôi chợt nghĩ. Như đoán được sự ngờ vực của hậu sinh tôi, rằng có khi chú đang không tỉnh táo, có còn sáng suốt nữa hay không, chú Thành ngâm thuộc lòng bài thơ Xuân Diệu “Xuân không mùa” để tặng cho cô bạn tôi, một người hâm mộ chú từ Paris về, nơi con của bạn cũng học cùng trường với những người con của chú, chỉ sau 30 năm mà thôi:
“… Xuân không chỉ ở mùa xuân ba tháng;
Xuân là khi nắng rạng đến tình cờ,
Chim trên cành há mỏ hót ra thơ;
Xuân là lúc gió về không định trước.
Đông đang lạnh bỗng một hôm trở ngược,
Mây bay đi để hở một khung trời
Thế là xuân. Ngày chỉ ấm hơi hơi,
Như được nắm một bàn tay son sẻ...”
Rồi chú bảo thực ra vọng cổ mới thật hay, bởi ngoài âm điệu ngân nga thì lời của nó đa phần là tuyệt tác. Chú ca cho chúng tôi nghe một đoạn, quen lắm mà tiếc rằng tôi không biết đó là điệu gì… Còn một số câu hỏi, nhưng đã 3 tiếng rồi, chú ngồi nhiều có thể sẽ mệt cho đôi chân bị tụ máu, chúng tôi xin cáo từ để chú nghỉ. Chúc chú còn khoẻ chục năm nữa, để giúp cho đất nước, chứ chú Thành mắt tinh, tai thính và còn nhanh nhẹn lắm, đầu óc thì chả khác gì trước cả, bọn “trẻ” chúng tôi còn chạy dài. Khi chia tay chụp ảnh kỷ niệm, chú mới đeo kính vào (“cho đẹp”, chú bảo vậy!), và cứ nghĩ chúng tôi toàn “Việt kiều” nên bảo, cứ bất cứ lúc nào về nước đều có thể qua chỗ chú mà tá túc (tôi lại chợt nhớ tới hình ảnh ông Diệm ăn phở ở nhà Việt kiều New York, khi đó hơn 50 tuổi chứ mấy…). 95 năm có là bao…